Mỗi dịp kỷ niệm về Vũ Ngọc Phan, trong tôi lại bồi hồi biết bao cảm xúc và kỷ niệm về ngôi nhà 20 Lý Thái Tổ, vừa là nơi ở, vừa là nơi làm việc.

Đây là lần thứ Ba tôi được dự lễ kỷ niệm sinh nhật Vũ Ngọc Phan (*)

Ở đó có một phòng cho gia đình ông bà Vũ Ngọc Phan – Hằng Phương – bây giờ là kho sách Thư viện; và tôi là cậu sinh viên vừa ra trường có chút tò mò không hiểu sao một tên tuổi như Vũ Ngọc Phan lại không có nhà riêng, lại phải ở nhờ cơ quan. ‘

Và sao gia đình vắng vẻ thế, ngoài ông bà ngày hai buổi làm việc ở Phòng Cổ Cận Dân trên gác, chỉ thấy có cô Phi Hồng, chú Triệu Mân lặng lẽ vào ra, và cậu Vũ Ngọc Phương thoăn thoắt chạy nhảy.

Chỉ sau đó ít lâu khi gia đình ông chuyển sang gian gác hai ngôi nhà số lẻ, đối diện với Viện, thì thỉnh thoảng tôi mới được thấy chị Giáng Hương và anh Lê Cao Đài; còn các anh khác thì mãi sau này tôi mới biết.

…Ở tuổi ngót 60, về cơ quan Viện Văn học, trong cương vị người phụ trách đầu tiên của Tổ Văn học dân gian, với các công trình sưu tầm khảo cứu của mình, và với công tổ chức cuộc Hội thảo đầu tiên về sưu tầm văn học dân gian toàn miền Bắc, năm 1964, Vũ Ngọc Phan đã được Đại hội văn nghệ dân gian lần thứ nhất tổ chức vào tháng 11 năm 1966 tin cậy giao trách nhiệm Tổng thư ký Hội.

Và do vốn kiến thức và kinh nghiệm nghề nghiệp phong phú, do trí nhớ mẫn tiệp, ở phần cuối đời, lẽ tự nhiên, ông còn tiếp tục mở rộng diện hoạt động của mình sang lĩnh vực hồi ký văn học…

Một cuộc đời với trên dưới 60 năm hoạt động không mỏi mệt trên nhiều lĩnh vực, ở mỗi lĩnh vực đều có đóng góp; và sự nghiệp để lại, nếu như tính toán cho thật triệt để theo sự thanh lọc của thời gian, mà vẫn còn để lại được, với dấu ấn khá đậm, ở phần nửa đầu thế kỷ là bộ sách Nhà văn hiện đại đồ sộ, và phần nửa sau thế kỷ là Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam được tái bản đến lần thứ mười hai, – một cuộc đời như vậy rất đáng cho chúng ta kính trọng, và một sự nghiệp như vậy rất đáng cho chúng ta biết ơn.

Tôi thấy cần nhấn mạnh thêm về vị trí mở đầu của hai bộ sách mà tác giả là người khai phá, và là một mở đầu rất đặc biệt, vì tầm vóc lớn của nó, vì khả năng tổng hợp của nó – qua đó thấy tác giả không chỉ là người gắn bó, tâm huyết với nghề, mà còn là người có tác phong chu đáo, cẩn trọng và có trách nhiệm rất cao với nghề.

Xin được dừng lại lâu hơn một chút ở bộ sách Nhà văn hiện đại, với chân dung và sự nghiệp của 79 tác giả, mà suốt hơn nửa thế kỷ sau khi bộ sách ra đời, không người nghiên cứu, phê bình văn học hiện đại nào mà không cần đến nó như một bộ sách công cụ cực kỳ quan trọng cho việc tìm hiểu diện mạo văn học dân tộc trong bước chuyển gấp rút từ trung đại sang hiện đại…

Quả là cuốn sách đạt được chất lượng rất cao ở cả hai phẩm chất: khảo cứu và phê bình. Về khảo cứu: đó là một công phu lao động cực kỳ chu đáo, tỉ mỉ…

Và về phê bình, đó là chân dung 79 người viết trong tên gọi tổng quát là nhà văn, bao gồm cả hai lĩnh vực: sáng tác và trước tác – một khái niệm, và một cách quan niệm chỉ đến thời hiện đại mới có, bao gồm thơ, văn, kịch, và biên khảo- nghị luận, phê bình; và riêng văn thì gồm đủ các loại truyện và ký…

Ở tư chất phê bình này phải nói là Vũ Ngọc Phan đã có không ít những phát hiện rất đích đáng – chẳng hạn về Nguyễn Tuân, Lê Văn Trương, về Tô Hoài, Vũ Bằng…

Tất nhiên đây chỉ là sức của một người (tôi nói vậy, bởi trong cả một thời gian rất dài sau 1945, gần như với những bộ sách như thế phải có đông người viết).

Với sức một người, và với tư cách là người đồng thời, mà chưa có độ lùi thời gian, tác giả làm sao mà tránh được những thiếu sót, hoặc những chuyện ngỡ như vô lý.

Chẳng hạn, nếu đã chọn viết Tương Phố, tác giả bài Giọt lệ thu khóc chồng cùng một số bài lẻ khác đăng trên Nam phong, thì sao lại bỏ qua Nguyễn Bính (và cả Chế Lan Viên) – người có một chân dung đầy đặn và độc đáo chẳng kém Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận… Hoặc Nam Cao.

Thật tình tôi vẫn tiếc cho sự vắng mặt Nam Cao, người có những thành tựu thật đặc sắc trong những năm 1941-1944, cũng là những năm ra đời 4 quyển Nhà văn hiện đại. Dẫu sao, tiếc là tiếc vậy, chứ cũng có lý do để giải thích cho sự bỏ sót, và cũng chẳng phải là cớ để trách Vũ Ngọc Phan.

…Khía cạnh thứ hai về giá trị của Nhà văn hiện đại tôi muốn nói – đó là: chính bộ sách là hiện thân, là đại diện, là sản phẩm, là sự kết tinh ở đỉnh cao thành tựu của tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc diễn ra chỉ trong hơn 30 năm nếu tính từ khởi điểm Nguyễn Văn Vĩnh, Hồ Biểu Chánh, Tản Đà, Phạm Duy Tốn, Hoàng Ngọc Phách, Vũ Đình Long…

Trong sự phát triển của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, thời kỳ 1930-194
5 theo tôi là thời kỳ hoàn thiện diện mạo hiện đại của văn học dân tộc, thời kỳ kết tinh và đưa lên đỉnh cao thành tựu của tất cả các khuynh hướng sáng tác và thể loại, với Thơ mới và Tự lực văn đoàn; với trào lưu hiện thực và tùy bút Nguyễn Tuân, truyện và kịch lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng; với Tố Hữu và Nhật ký trong tù…

Và, ở giai đoạn cuối của nó, cố nhiên là không thể sớm hơn, đó là sự xuất hiện các công trình khảo cứu, nghị luận, phê bình thật sáng giá của Đào Duy Anh, Dương Quảng Hàm, Nguyễn Đổng Chi, Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh, Đặng Thai Mai…

Vậy là ở tuổi 40, với đột phá là Nhà văn hiện đại; ở tuổi ngoài 60, trở về với văn học dân gian, 50 năm hành trình nghề nghiệp của Vũ Ngọc Phan là 50 năm gắn bó với các giá trị tinh thần trong di sản văn chương- học thuật dân tộc.

Và đó là điều ông đã từng nói, cách đây hơn 60 năm, trong Kết luận của Nhà văn hiện đại: “Văn chương tuy không bổ ích trực tiếp cho người đời như cơm gạo, nhưng nó chính là một thứ đồ ăn về đường tinh thần của một dân tộc văn minh; nó chính là hồn của một dân tộc biết suy nghĩ, biết nhận xét và luôn luôn có cái hy vọng chen vai thích cánh với những dân tộc hùng cường trên thế giới. Một dân tộc không biết trọng văn chương của mình chỉ có thể là một dân tộc man di hay sắp đến ngày diệt vong”.

… Viện Văn học được thành lập vào đầu năm 1959, và từ lúc ấy cho đến trước Đổi mới, những người lãnh đạo và lực lượng cốt cán của Viện phải luôn luôn giữ vững lập trường, quan điểm, trên các vấn đề lớn của văn chương- học thuật; từ yêu cầu đó, chúng tôi hiểu vì sao, Hoài Thanh, trong sự nghiệp viết sau 1945 của mình, luôn luôn trở đi trở lại sự phê phán trào lưu văn học lãng mạn và phong trào Thơ mới, và tự phê bình thật gay gắt cuốn Thi nhân Việt Nam…

Người khai mạc nền tiểu thuyết mới và trào lưu lãng mạn trong văn xuôi là Hoàng Ngọc Phách cho đến khi qua đời, chưa một lần nói đến giá trị cuốn Tố Tâm của mình.

Còn Vũ Ngọc Phan, thì đã dứt khoát thôi hẳn sự gắn bó với các “nhà văn hiện đại” – là những người đồng thời hoặc là tiền bối của ông, trong đó, ông đâu có để sót một gương mặt lãng mạn nào, kể từ Nhất Linh, Khái Hưng… đến Vũ Hoàng Chương; không những thế, còn phải đi ngược lên vị trí những người khai mạc nền văn chương- học thuật Quốc ngữ, như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim…

Còn nhớ, những tên tuổi tôi vừa dẫn trên, tất cả đều là đích ngắm, hoặc trong tầm ngắm của giới phê bình- nghiên cứu văn học một thời.

Mãi nhiều năm sau này tôi mới cảm nhận và giải thích được một ít cái lặng lẽ, và lủi thủi của một lớp người sáng danh đã kể trên trong dàn cán bộ lão thành của Viện Văn học.

Năm 1961 trong sách Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, Đặng Thai Mai có đoạn viết về Phạm Quỳnh – “tiên sinh kính trắng” như “là một người đã đọc khá nhiều sách và đã đem học thức ra bán rẻ cho bọn thống trị; là một nhà “học giả” có đủ chữ Hán và tiếng Việt để bịp người Tây; và cũng có đủ chữ Tây để lòe người “An nam”(1).

24 năm sau, trong Hồi ký ông vẫn tiếp tục nhận định trên nhưng có thêm một ý ngắn: “Cụ Bùi hồi này (tức Bùi Kỷ), cùng với Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh là ba nhà trí thức cỡ lớn của thủ đô”(2).

Hoài Thanh trước khi mất, năm 1982, nói với con là Từ Sơn: “Cha biết văn chương của cha cũng chỉ vầy vậy thôi. Nếu không có cuốn Thi nhân Việt Nam thì đã không chắc gì người ta công nhận cha thực sự là một nhà văn”(3).

Còn Vũ Ngọc Phan, ông không có một cuộc “tự kiểm thảo” nào, bởi ông đã chuyển niềm say mê nghề nghiệp sang cổ tích, tục ngữ, ca dao, dân ca… Với văn học hiện đại, ông chuyển sang viết hồi ký. Mãi đến 1989, hai năm sau ngày ông qua đời, Nhà văn hiện đại, mới được tái bản lần đầu…

Vũ Ngọc Phan mất giữa năm 1987, tức là ông vẫn chưa được hưởng một chút thư thái, an nhàn nào trong sinh hoạt vật chất vốn rất khó khăn đối với cả dân tộc chúng ta hồi ấy. Ông cũng chưa được hưởng một sự cởi mở trong sinh hoạt tinh thần để thấy giá trị nguyên vẹn về mặt khoa học của số lớn những gì ông đã viết trong Nhà văn hiện đại./.

 

Theo GS Phong Lê – SGGP

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *